Tin tức

Quan điểm về cáo buộc xuất khẩu tôm tránh thuế của nghị sĩ Mỹ

Quan điểm về cáo buộc xuất khẩu tôm tránh thuế của nghị sĩ Mỹ
Ảnh minh họa: Internet
 

“Theo quan điểm của tôi, khiếu nại này rõ ràng có nguồn gốc từ một đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh tôm”, John Sackton, nhà sáng lập trang tin chuyên ngành thủy sản SeafoodNews (Mỹ) nêu quan điểm trên mục bình luận của trang này.

Thật là nực cười khi thấy một số nhà nhập khẩu tôm lớn của Hoa Kỳ thử và sử dụng bộ phận điều tra thuế thương mại để tăng tính cạnh tranh.

Đây rõ ràng là hành vi của ngành tôm nội địa, đã từng bị ngành tôm NK chỉ trích trong nhiều năm qua.

Các nhà chế biến tôm trong nước đang cố gắng làm suy yếu niềm tin của người mua tôm đối với tôm NK bằng cách lặp đi lặp lại các cáo buộc sai lệch liên quan đến việc thiếu kiểm tra và sự xuất hiện của kháng sinh trong tôm NK.

Theo thời gian, những cáo buộc này đã không còn giá trị vì người tiêu dùng đã thấy rằng một số nhà máy chế biến tôm sạch và hiện đại nhất trên thế giới nằm ở các nước như Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan và các nước khác.

Tuần này, chúng tôi đang theo một câu chuyện về Nghị sĩ Darin LaHood từ Illinois, người đã gửi thư cho người đứng đầu Cơ quan Hải quan và Biên phòng và Bộ trưởng Thương mại Mỹ, kêu gọi sự chú ý đến một khiếu nại được đăng tải công khai đối với Tập đoàn Thủy sản Minh Phú. Khiếu nại này, chưa được điều tra, cáo buộc rằng Minh Phú, một trong những công ty tôm lớn nhất Việt Nam, đang NK tôm chịu thuế từ Ấn Độ và sau đó bán lại tôm đó cho Mỹ dưới dạng sản phẩm của Việt Nam để được miễn thuế.

Bất kỳ ai những người biết cách thức làm việc của Washington đều nhận ra rằng những loại thư này không xuất hiện ngẫu nhiên. Darren LaHood là thành viên Đảng Cộng hòa duy nhất của Ủy ban Tài chính và Thuế vụ từ Illinois. Ủy ban này có thẩm quyền đối với thuế quan và thương mại. Theo quan điểm của tôi, khiếu nại này rõ ràng bắt nguồn từ một đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh tôm.

Do những cáo buộc sai lệch trước đây chống lại tôm NK, Quốc hội đã buộc Cục Nghề cá biển Quốc gia Mỹ (NMFS) phải đưa tôm vào chương trình kiểm soát thủy sản NK (SIMP). Trớ trêu là, có thể chính SIMP cho phép các nhà XK dễ dàng bác bỏ các cáo buộc chống lại họ.

SIMP yêu cầu truy xuất đầy đủ đối với xuất xứ sản phẩm và các thông tin khác về tất cả các sản phẩm tôm được nhập khẩu vào Mỹ. Đối với một nhà XK lớn có cam kết với những công ty mua tôm lớn nhất Mỹ, quan niệm cho rằng họ sẽ làm sai hoặc làm giả thông tin SIMP là điều không thể tin được.

Cáo buộc nói rằng Ấn Độ đang XK nhiều tôm hơn sang Việt Nam. Đây là sự thật. Các nhà chế biến tôm Việt Nam trong nhiều năm qua đã không thể đảm bảo nguồn cung nguyên liệu đầy đủ từ các nguồn trong nước.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã mở rộng XK tôm sang các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng như Mỹ.

Mỹ chiếm khoảng 21% đến 26% XK tôm Việt Nam. Nhật Bản là thị trường quan trọng hơn, tiếp theo là Hàn Quốc. Cho đến năm 2019, tỷ lệ tôm Việt Nam XK sang Mỹ đã giảm.

Số liệu nhập khẩu tôm mới nhất của Mỹ cho thấy, 4 tháng đầu năm 2019, XK tôm của Ấn Độ sang Mỹ đã tăng 14,4% đạt 164 triệu pound. Trong khi đó, XK tôm Việt Nam sang Mỹ đã giảm 7,3% đạt 29 triệu pound.

Các nhà nhập khẩu Mỹ biết rằng việc nắm được dữ liệu thương mại có thể là việc khó và có nhiều quy định về cách ghi nhãn xuất xứ. Tuy nhiên, số liệu thống kê thương mại không có gì chứng tỏ thương mại tôm với Ấn Độ tăng có nghĩa là tôm Việt Nam đang XK sang Mỹ không đáp ứng được yêu cầu xuất xứ của Mỹ.

Bức thư cũng cáo buộc rằng sau khi Minh Phú nhận được mức thuế bằng 0, XK của công ty sang Mỹ tăng. Đương nhiên, một ưu đãi thuế bằng 0 sẽ dẫn đến nhiều hàng được XK sang nước đó. Điều tương tự cũng xảy ra với Guilian ở Trung Quốc, công ty này được hưởng mức thuế suất 0% trong nhiều năm qua.

Vấn đề lớn hơn là các cuộc điều tra chống bán phá giá và thuế đã làm tổn thương ngành thủy sản Mỹ, khiến cho giá các loại thủy sản bao gồm tôm bán cho người tiêu dùng Mỹ bị đắt hơn. Chúng đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và mở rộng. Chúng đã làm cho chuỗi cung ứng trở lên phức tạp hơn.

Ngành thủy sản Mỹ phụ thuộc vào thương mại quốc tế nhiều hơn so với bất kỳ ngành công nghiệp protein nào khác. Những hành động khiến thương mại trở nên đắt đỏ hơn, gây áp lực chính trị đối với các quyết định kinh tế và mở ra cơ hội cho tham nhũng, đều bị tất cả các nhà nhập khẩu Mỹ phản đối mạnh mẽ.

Mục đích của ngành tôm trong nước nhằm phá hại ngành NK là điều dễ thấy. Họ càng làm tăng chi phí cho đối thủ cạnh tranh, họ càng có cơ hội thị trường tiềm năng cho sản phẩm của mình. Với chiến lược này, họ không quan tâm đến việc bảo vệ quy mô chung của thị trường tôm Mỹ vì họ chỉ cung cấp khoảng 10% tổng số. Vì vậy, nếu họ có thể tăng chi phí cho tôm NK, thì đó lại là điểm có lợi cho họ.

Đối với các nhà nhập khẩu, đặc biệt là 10 đến 12 công ty lớn chiếm phần lớn nhập khẩu tôm của Mỹ, mối quan tâm của họ lại khác. Mối quan tâm của họ là thị trường Mỹ phải là thị trường tôm lớn nhất và quan trọng nhất trên thế giới. Vì vậy họ tăng cường mối quan hệ kinh doanh với các nhà cung cấp và giúp đảm bảo rằng người tiêu dùng Mỹ được hưởng giá tôm tốt nhất có thể. Sự quan tâm của họ cũng bao gồm việc có được mức thuế thấp nhất phù hợp với thương mại công bằng và có ít cuộc điều tra tốn kém và tốn thời gian của Chính phủ.

Vì lý do này, tôi rất tiếc khi thấy một sự chia rẽ trong ngành công nghiệp Mỹ, nơi chính các nhà nhập khẩu, những người có thể đứng đằng sau những nỗ lực nhằm thúc đẩy các cuộc điều tra sâu hơn của chính phủ về thuế tôm.

Loại hành động này chắc chắn không có lợi cho ngành NK tôm cũng như các khách hàng lớn, những người không có lý do gì để bị kéo vào giữa lùm xùm này. Tất cả những khách hàng này đều có báo cáo và giám sát chuỗi cung ứng rộng rãi và họ có khả năng tự phát hiện bất kỳ sự bất hợp lý tiềm ẩn nào.

Cho đến nay, đây chỉ là một yêu cầu công khai đơn giản cho Bộ Thương mại Mỹ, mặc dù đang được hậu thuẫn bởi một Nghị sĩ. Hy vọng, điều này sẽ không đi xa hơn. Nếu các yêu cầu này dẫn tới một cuộc điều tra hay phản đối điều tra, điều này đều không có lợi cho bất cứ ai trong ngành tôm.